Bài
3: PHƯƠNG PHÁP TÌM TUỔI HOANG ỐC
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN DỊCH?
Vì công việc làm
nhà cửa là một việc hệ trọng của đời người có tác động rộng lớn
đến cuộc sống và hạnh phúc gia đạo nên ngoài việc tránh tứ Kim Lâu,
người ta còn tránh tuổi phạm Hoang Ốc nữa. Phương pháp tính tuổi
Hoang Ốc hiện nay các thầy, các sách đều thống nhất, không có một ý
kiến nào trái ngược nhau.Tôi cũng không có ý kiến gì khác hơn nhưng
muốn trình bày thêm cách tính này, đáng để chúng ta tin tưởng không?
1.
CÁCH
TÍNH
(Theo thứ tự liên tiếp, bất luận
là nam hay nữ)
- Nhất kiết, nhị nghi, tam địa
sát, tứ tấn tài, ngũ thọ tử, lục hoang ốc.
- Khởi đếm 10 tuổi tại nhất kiết,
20 tuổi tại nhị nghi, 30 tuổi tại tam địa sát, 40 tuổi tại tứ tấn
tài, 50 tuổi tại ngũ thọ tử, 60 tuổi tại lục hoang ốc, đếm hết
tuổi chẵn đến tuổi lẻ liên tiết theo thuận chiều kim đồng hồ rơi tại
cung nào biết cung ấy tốt hay xấu. Bài thơ thường dùng để minh họa
cho cách tính này là:
Nhất kiết an cư thông vạn sự (tốt,
dùng)
Nhì nghi tấn thất
địa sinh tài (tốt, dùng)
Tam sát nhơn do giai
đắc bệnh (xấu, kỵ)
Tứ tấn tài chi
phước lộc lai (tốt, dùng)
Ngũ tử ly thân
phòng tử biệt (xấu, kỵ)
Lục ốc tạo gia bất khả thành
(xấu , kỵ)
Ví
dụ, người có số tuồi là 43 phạm Hoang Ốc hay không? Ta tính 40 tuổi
khởi tại tứ tấn tài, 41 tuổi tại ngũ thọ tử, 42 tuổi tại lục hoang
ốc, 43 tuổi tại nhất kiết là tốt, dùng. Các tuổi khác cứ thế mà
suy.
2.
NHẬN
XÉT
Cách tính trên nếu ta sắp xếp từ
dưới lên trên thì nó giống sáu hào của một trùng quái trong kinh
dịch, nếu ta tính sẵn số tuổi người dụng sự để sắp xếp vào vị
trí đúng như phương pháp đã nêu thì ta thấy:
- Tại hào 1 và hào 4 của trùng
quái sẽ xuất hiện các số đại biểu của Lạc thư là 1, 4, 7 (nhóm cung
Khảm).
- Tại hào 2 và hào 5 của trùng
quái sẽ xuất hiện các số đại biểu của Lạc thư là 2, 5, 8 (nhóm cung
Cấn).
- Tại hào 3 và hào 6 của trùng
quái sẽ xuất hiện các số đại biểu của Lạc thư là 3, 6, 9 (nhóm cung
Ly). (Xem hình 4)
Hào 6
|
15
|
24
|
33
|
39
|
42
|
48
|
|
Lục hoang
|
51
|
57
|
60
|
66
|
75
|
84
|
- Đại biểu
là số 3, 6, 9
|
ốc
|
93
|
99
|
|
|
|
|
|
Hào 5
|
14
|
23
|
29
|
32
|
38
|
41
|
|
Ngũ thọ tử
|
47
|
50
|
56
|
65
|
74
|
83
|
- Đại biểu
là số 2, 5, 8
|
|
89
|
92
|
98
|
|
|
|
|
Hào 4
|
13
|
19
|
22
|
28
|
31
|
37
|
|
Tứ tấn tài
|
40
|
46
|
55
|
64
|
73
|
79
|
- Đại biểu
là số 1, 4, 7
|
|
82
|
88
|
91
|
97
|
|
|
|
Hào 3
|
12
|
18
|
21
|
27
|
30
|
36
|
|
Tam địa sát
|
45
|
54
|
63
|
69
|
72
|
78
|
- Đại biểu
là số 3, 6, 9
|
|
81
|
87
|
90
|
96
|
|
|
|
Hào 2
|
11
|
17
|
20
|
26
|
35
|
44
|
|
Nhị nghi
|
53
|
59
|
62
|
68
|
71
|
77
|
- Đại biểu
là số 2, 5, 8
|
|
80
|
86
|
95
|
|
|
|
|
Hào 1
|
10
|
16
|
25
|
34
|
43
|
49
|
|
Nhất kiết
|
52
|
58
|
61
|
67
|
70
|
76
|
- Đại biểu
là số 1, 4, 7
|
|
85
|
94
|
|
|
|
|
|
Hình
4
Sự
sắp xếp như trên có ý nghĩa gì với đạo lý của dịch? Đáng tin tưởng
hay không? Theo tôi nghĩ là có đạo lý và đáng tin tưởng, vì ngày xưa
người ta mượn âm từ “trạch” của quẻ Đoài để chế ra phương pháp này.
Đoài vi trạch, trạch là chằm, là cái đầm, chỗ nước đọng lớn. Cùng
âm từ trạch còn có nghĩa khác là phòng ốc (dương trạch), mồ mả (âm
trạch), mà các thầy phong thủy thường dùng âm từ này. Không cần phân
tích rườm rà, theo đại khái tốt xấu của 6 hào quẻ Đoài, ta thấy nó
rất tương ứng với cách sắp xếp theo phương pháp tìm tuổi Hoang Ốc.
Hào 6 tương ứng với Lục Hoang ốc (xấu)
Hào 5 tương ứng với Ngũ Thọ tử (xấu)
Hào 4 tương ứng với Tứ Tấn tài (tốt)
Hào 3 tương ứng với Tam Địa sát (xấu)
Hào 2 tương ứng với Nhì Nghi (tốt)
Hào 1 tương ứng với Nhất Kiết (tốt)
(Độc
giả có thể suy nghiệm từng hào từ quẻ thuần Đoài sẽ thấy có sự
tương ứng)
Ngoài
ra nếu ta dùng ngũ hành của nhóm đại biểu số Lạc thư đã nêu đem so
sánh với ngũ hành của từng hào của quẻ Đoài để biện bạch thì
cũng thấy tương ứng. Cụ thể, theo quẻ thuần Đoài thì sự sắp xếp
các hào tính từ dưới lên trên như sau: hào 1 Tỵ Hỏa, hào 2 Mão Mộc,
hào 3 Sửu Thổ, hào 4 Hợi Thủy, hào 5 Dậu Kim, hào 6 Mùi Thổ. Theo
hình 4 ta thấy:
-
Tại hào 1 nhóm cung Khảm (1, 4, 7) tụ tập. Khảm Thủy khắc được Tỵ
Hỏa nên tốt, dùng.
-
Tại hào 2 nhóm cung Cấn (2, 5, 8) tụ tập bị Mão Mộc khắc nhưng vì
Mão là âm Mộc, là cây nhỏ, là các loài thảo mộc nên không thể khắc
nổi Cấn Thổ là dương Thổ, là đất đá núi cho nên không bị ảnh hưởng
gì, vẫn NGHI dụng (Nghi nghĩa là hợp, là nên, ngụ ý là dùng được)
-
Tại hào 3 nhóm cung Ly (3, 6, 9) tụ tập, Ly Hỏa sinh cho Sửu Thổ là
bị tiết khí nên xấu, kỵ.
-
Tại hào 4 nhóm cung Khảm (1, 4, 7) tụ tập, Khảm Thủy tỵ hòa với Hợi
Thủy nên tốt, dùng.
-
Tại hào 5 nhóm cung Cấn (2, 5, 8) tụ tập, Cấn Thổ sinh cho Dậu Kim là
bị tiết khí nên xấu, kỵ.
-
Tại hào 6 nhóm cung Ly (3, 6, 9) tụ tập, Ly Hỏa sinh cho Mùi Thổ là
bị tiết khí nên xấu, kỵ.
Lối giải thích
trên có thể gây khó chịu cho những độc giả “khó tính”, nhưng vì là
người hậu học, chúng ta cố gắng tìm hiểu cái lý của các bậc tiền
bối. Hữu lý thì ta chấp nhận, không hữu lý thì ta bác bỏ.
Cảm ơn bài viết của Bác rất nhiều! Tôi đang phân vân về vấn đề này ( 1979 - 38 tuổi) đọc bài viết của bác tôi thấy tĩnh tâm hơn nhiều!
Trả lờiXóaLoạt bài viết của Bác rất sâu sắc, những người hiểu ngọn ngành và phân tích logic về lĩnh vực phong thuỷ như Bác tới giờ rất hiếm. Xin được bày tỏ ngưỡng mộ và mong Bác có nhiều bài viết hay để bậc hậu sinh được thọ giáo
Trả lờiXóa